Tác giả phân tích một số yếu tố tác động đến các xu hướng đó và ảnh hưởng của chúng đến xu hướng dòng vốn FDI vào châu Á, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam trong việc xây dựng định hướng đón đầu xu hướng chuyển dịch dòng vốn FDI trong khu vực. Đầu tư nước ngoài trên thế giới hiện nay tập trung chủ yếu vào lĩnh vực.
TÓM TẮT BÀI VIẾT
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là gì?
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được nhìn nhận qua một số lăng kính lý thuyết với nhiều quan điểm khác nhau. Mặc dù các nghiên cứu trước đây đã xác định một số yếu tố tác động đến quyết định FDI của một doanh nghiệp đa quốc gia (MNE), nhưng các yếu tố quyết định đó thường chỉ áp dụng cho bối cảnh cụ thể được xem xét, hoặc nếu không sẽ chỉ ảnh hưởng đến việc gia nhập thị trường ban đầu. Một công thức lý thuyết toàn diện giúp phân tích các mô hình FDI trên các khu vực địa lý khác nhau đã được chứng minh là khó nắm bắt.
Các mô hình FDI như vậy cũng cần được kiểm tra theo thời gian, vì các yếu tố có lợi cho đầu tư ban đầu của MNE vào một quốc gia có thể thay đổi, khiến nó chuyển các khoản đầu tư mới sang nơi khác. Một số cân nhắc chiến lược có thể thúc đẩy sự thay đổi như vậy, chẳng hạn như cường độ cạnh tranh tăng lên tại địa điểm ban đầu, các yêu cầu cắt giảm chi phí thúc đẩy việc tìm kiếm các địa điểm sản xuất mới với chi phí thấp hoặc áp lực gia nhập thị trường mới trước những động thái tương tự của các đối thủ.
Các biện pháp do các chính phủ thực hiện trong việc tự do hóa chế độ đầu tư cũng ảnh hưởng sâu sắc đến các quyết định về FDI. Do đó, xu hướng FDI là một hiện tượng phức tạp, đa chiều, cần được xem xét từ quan điểm kinh tế vĩ mô cũng như chiến lược doanh nghiệp để có phân tích thực tế hơn.
Nhiều cuộc khảo sát và nghiên cứu, chẳng hạn như của Liên Hợp quốc, thường xuyên công bố dữ liệu tổng hợp về FDI theo quốc gia. Những điều này thường cho thấy sự gia tăng đáng kể của FDI vào một khu vực cụ thể, đồng thời với sự giảm tốc đầu tư vào các điểm đến phổ biến khác, cho thấy sự thay đổi của các yếu tố quyết định FDI. Nghiên cứu này nhằm cung cấp cơ sở lý luận cho xu hướng thay đổi của dòng vốn FDI cũng như phân tích sức hấp dẫn của thị trường châu Á trong việc thu hút FDI.
2. Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước
Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận biên (số có thêm trong tổng số đầu ra mà một nhà sản xuất có được do dùng thêm một đơn vị của yếu tố sản xuất)của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi phí sản xuất của các nước thừa vốn thường cao hơn các nước thiếu vốn. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là tất cả những hoạt động nào có năng suất cận biên cao mới được các Doanh nghiệp đầu tư sản xuất mà cũng có những hoạt động quan trọng, là sống còn của Doanh nghiệp thì họ vẫn tự sản xuất cho dù hoạt động đó cho năng suất cận biên thấp.
3. Các yếu tố làm thay đổi xu hướng FDI vào châu Á
3.1. Vị trí đầu tư
Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế thì chu kỳ sống của các sản phẩm này bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoan sản phẩm mới; giai đoạn sản phẩm chín muồi; giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa. Akamatsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới, ban đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị trường bản địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thụât của nước ngoài(giai đoạn sản phẩm chín muồi). Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện (giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa). Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình thành FDI.
Bằng các nghiên cứu điển hình trong đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản – Các nghiên cứu về các nhà bán lẻ Nhật Bản đối với thị trường châu Á”, PGS. Atsuji Ohara – Đại học Nagasaki (Nhật Bản) chỉ ra rằng, châu Á là thị trường tiềm năng thu hút các nhà đầu tư Nhật Bản bằng mạng lưới khách hàng mới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu ở các thị trường mới nổi – nơi mà các nhà đầu tư có thể tận dụng nguồn vốn của mình mở rộng thương hiệu và mô hình kinh doanh. Các nhà bán lẻ Nhật Bản đang mở rộng FDI từ thị trường Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á bằng chiến lược đa dạng hóa hơn là chỉ tập trung vào thị trường Trung Quốc.
3.2. Áp lực giảm chi phí
Kể từ cuối những năm 1980, MNES cũng đã đầu tư lớn vào Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia, những thị trường khổng lồ. Các nước này theo truyền thống đã có hàng rào thuế quan cao để ngăn chặn sự xâm nhập của hàng hóa nước ngoài. Chính phủ của họ thường chỉ thâm nhập vào các thị trường béo bở của họ khi các MNE thiết lập các cơ sở sản xuất tại địa phương.
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI.
Việc hình thành áp lực cạnh tranh gay gắt ở khu vực chủ nhà ban đầu sẽ khiến các MNE phải đầu tư tìm kiếm hiệu quả vào các quốc gia có mức lương thấp để giảm chi phí. Trên thực tế, để đối phó với sự gia tăng của áp lực cạnh tranh gay gắt ở Tây Âu, các MNE của Hoa Kỳ đã chuyển dịch cơ cấu FDI của họ vào các nước châu Á có GNP thấp (do đó là những thị trường kém hấp dẫn hơn) chủ yếu để tận dụng mức lương thấp các cấp độ. Theo nhận định của Hội nghị Liên Hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD/CNUCED), Trung Quốc, Hàn Quốc và nhất là Đông Nam Á, trở thành những địa bàn hoạt động lý tưởng. Tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới được thống kê năm 2013 đạt 1.450 tỷ USD. Vào lúc mà cả Liên hiệp châu Âu lẫn Bắc Mỹ chỉ giành được 250 tỷ USDcủa số vốn đầu tư nói trên, thì phần đổ vào châu Á là 426 tỷ USD. Châu Á chiếm đến gần 30% tổng số FDI của toàn cầu. Nhưng đứng đầu danh sách vẫn là Trung Quốc với 124 tỷ USDFDI được đổ vào Trung Quốc – không kể Hồng Kông và Đài Loan. Như vậy, chỉ một mình Trung Quốc chiếm đến 1/3 tổng đầu tư nước ngoài hướng về các nền kinh tế đang trỗi dậy của toàn châu Á.
HỌC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN VIP 1 VS 1
Bộ 11 tài Liệu Chia Sẻ Miễn Phí Tới Các Nhà Đầu Tư Chứng Khoán
Vậy Để Nhận được Bộ 11 Tài Liệu Trên bạn Cần mở Tài Khoản Chứng Khoán của TechcomBank Thành công Theo Link Sau : https://dautulagi.com/tcbs
Cách Nhận Bộ 11 Tài Liệu Đầu Tư CHứng Khoán
Mở tài khoản chứng khoán TCBS với Mã giới thiệu iWealth Partner: 105C698138 . Các bạn liên hệ với chúng tôi để Nhận Bộ 11 Tài Liệu Phía Trên chi tiết liên hệ: Facebook Đầu Tư Là Gì hoặc Zalo: 0966.192.366
Đăng Ký Học Đầu Tư Chứng Khoán Miễn Phí từ A-Z
3.4. Sự gần gũi về văn hóa
Nhiều nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra mối quan hệ văn hóa đối với nước sở tại là một yếu tố quyết định đáng kể đến FDI. Tuy nhiên, một số học giả đã lập luận rằng sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau đang quy tụ về một chuẩn mực toàn cầu và do đó ảnh hưởng của khoảng cách văn hóa có thể sẽ giảm dần. Hơn nữa, các MNE cũng có thể bị buộc phải bỏ qua khoảng cách văn hóa lớn hơn của các nước đang phát triển để ủng hộ lợi thế về mức lương thấp của họ và chọn họ là những địa điểm “tốt nhất tiếp theo”.
Ngay từ những năm 1950, Nhật Bản đã tiến hành các dự án đầu tư vào khu vực Đông Nam Á. Khối lượng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN liên tục có sự gia tăng mạnh mẽ. Từ năm 1990 đến năm 1993, FDI của Nhật Bản vào các nước này tăng từ 7,8% đến 11,33%. Đến năm 1994, tổng số vốn đầu tư này đã lên tới 5,13 tỷ USD. Trong năm 2014, con số này đã lên đến 35,57 tỷ USD, tương đương với 12,5% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản và 54% đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại châu Á. Sau thỏa thuận Plaza, đồng Yên lên giá mạnh so với đồng USDvà các đồng tiền ASEAN làm mất tính cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu. Điều này góp phần làm gia tăng xu thế chuyển dịch đầu tư của Nhật Bản sang các nước châu Á, nơi có văn hóa tương đồng và có chi phí sản xuất thấp hơn rất nhiều so với tại Nhật Bản.
Năm 2018, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật Bản tại ASEAN lên tới gần 30 tỷ USD, chiếm gần 56% tổng vốn FDI của Nhật Bản tại châu Á.
Đất nước Mặt trời mọc cũng tích cực thiết lập quan hệ kinh tế chặt chẽ với ASEAN theo những cách khác. Trong vòng 6 năm, từ năm 2002 – 2008, Nhật Bản đã phê chuẩn các thỏa thuận hợp tác kinh tế với tất cả 10 quốc gia thành viên ASEAN. Nhật Bản cũng ủng hộ tăng cường hội nhập kinh tế của ASEAN thông qua hợp tác trong khuôn khổ Hành lang Kinh tế Đông – Tây, Hành lang Kinh tế phía Nam (với các quốc gia lục địa của ASEAN) và Hành lang Kinh tế ASEAN. Những hoạt động kinh tế này đã giúp tăng cường ảnh hưởng của Nhật Bản tại Đông Nam Á.
Trong một cuộc thăm dò dư luận năm 2019, có tới 93% công chúng ASEAN coi Nhật Bản như là người bạn và 87% cho rằng vai trò của Nhật Bản rất quan trọng đối với khu vực. Với những khía cạnh tích cực này, quan hệ Nhật Bản – ASEAN sẽ tiếp tục phát triển, tạo thuận lợi hơn nữa cho việc tăng cường hợp tác song phương trong tương lai.
3.4. Chu kỳ đầu tư – phát triển
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng dư thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ và châu Âu.
Đầu tư tìm kiếm thị trường cũng có triển vọng ở Việt Nam. Theo kinh nghiệm lịch sử của Trung Quốc, Việt Nam hiện đang trong thời kỳ kinh tế phát triển và công nghiệp hóa chứa đựng những cơ hội to lớn để tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập và tăng tốc đô thị hóa. Dân số Việt Nam gần 100 triệu người và tổng thị trường tiêu dùng rất lớn; GDP bình quân đầu người tương đương với mức năm 2006 của Trung Quốc và thu nhập tăng lên thúc đẩy tiêu dùng nâng cấp; tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam chỉ là 36,6%, vẫn còn nhiều khả năng cải thiện so với các nước có thu nhập trung bình khác.
GDP bình quân đầu người của Việt Nam chưa đến 3.000 USD, nhưng trong bối cảnh chiến tranh thương mại Trung – Mỹ và đại dịch Covid-19, Việt Nam đã trở thành điểm nóng về đầu tư nước ngoài. Chính phủ Nhật Bản đã chi 2,2 tỷ USD để hỗ trợ các công ty Nhật Bản di dời cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc bằng sức mạnh tài chính. Một nửa trong số 30 công ty đầu tiên chuyển đến Đông Nam Á được công bố vào tháng 7 sẽ chuyển đến Việt Nam. Sau đó, Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam (EVFTA) có hiệu lực vào tháng 8/2020. Hiệp định cấp cao này sẽ cắt giảm 99% thuế quan song phương trong vòng 10 năm. Chưa kể, gã khổng lồ Samsung của Hàn Quốc đã rút toàn bộ việc sản xuất hàng điện tử tiêu dùng khỏi Trung Quốc và phần lớn chuyển sang Việt Nam, nhiều công ty sản xuất Trung Quốc cũng coi Việt Nam là điểm đến ưa thích để tránh thuế quan của Mỹ và chuyển hướng sản xuất. Quy mô đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng lớn, thể hiện cục diện mới vừa hợp tác vừa cạnh tranh.
>>>>> Nhận định cổ phiếu HAH giá cước vận tải vẫn tăng cổ tức đều Đánh Giá HAH 2022
3.5. Sự ổn định chính trị
Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Nhật Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. Ví dụ, các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung Quốc là Lenovo mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc) trong sáp nhập với Thompson (Pháp) thành TCL-Thompson Electronics, việc National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy.
Nhìn sang Thái Lan, bất ổn chính trị trong 6 tháng cuối năm 2013 là nguyên nhân khiến tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào quốc gia Đông Nam Á này chỉ đạt 13 tỷ USD, thấp hơn so với mong đợi của chính phủ Thái Lan.
Tương tự, các nước Thái Lan, Malaisia và Philipin không nằm trong 25 nước hàng đầu xếp hạng theo Chỉ số tin cậy FDI là do sự bất ổn chính trị và nền kinh tế vận hành kém, thiếu lao động trình độ chuyên môn cao, tăng chi phí lao động.
Trái hẳn với bế tắc chính trị tại Thái Lan, Myamar đang chuyển mình từ năm 2011. Trong năm 2013, theo bảng xếp hạng của Liên Hiệp quốc, nước này thực sự thành công mỹ mãn với kỷ lục 2,6 tỷ USDFDI đầu tư. Riêng đối với 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, theo đánh giá của tổ chức UNCTAD, đầu tư FDI vào các nước này tiếp tục ổn định và tăng trưởng đều dựa trên sự ổn định chính trị.
3.6. Bài học cho Việt Nam
Triển vọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam năm 2021 được xem là rất sáng sủa trong bối cảnh nhiều nhà đầu tư lớn, vừa và nhỏ từ các quốc gia phát triển dần chuyển hướng đầu tư vào Việt Nam. Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/3/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 10,13 tỷ USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I/2021 ước tính đạt 4,1 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước (GSO). Trong số các đối tác FDI vào Việt Nam, những đối tác hàng đầu chủ yếu là các nước châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, song sự hiện diện của các nước phương Tây trong số các đối tác FDI hàng đầu vẫn còn khá thấp.
Trước khi thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và phải đáp ứng các điều kiện về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ theo quy định của pháp luật về chứng khoán, về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước và các điều kiện theo quy định của pháp luật và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tại Việt Nam, FDI có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước. Theo đó, tính lũy kế đến ngày 20/12/2019, cả nước có 30.827 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng kí 362,58 tỉ USD. Nhiều tập đoàn hàng đầu trên thế giới đã chọn Việt Nam làm “cứ điểm” sản xuất như Samsung, LG, Toyota, Honda, Canon… Riêng năm 2019, tọng số vốn đăng kí cấp mới và vốn tăng thêm đạt 38 tỉ USD. Doanh nghiệp FDI đã trở thành một khu vực phát triển năng động, đóng góp gần 20% GDP và là nguồn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư phát triển của Việt Nam với tỉ trọng khoảng 25% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Riêng năm 2018, khu vực đầu tư nước ngoài đã đóng góp 13,6% tổng thu ngân sách nhà nước; tạo việc làm trực tiếp trong khu vực đầu tư nước ngoài tăng từ 330.000 người năm 1995 lên khoảng 4 triệu người năm 2018; đồng thời tạo việc làm gián tiếp cho khoảng 5-6 triệu lao động…
Bên cạnh đó, Việt Nam được xem là “đất lành” cho dòng vốn FDI chất lượng cao, các doanh nghiệp quốc tế lớn đang tìm kiếm cơ hội đầu tư nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng và hạn chế việc quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Việt Nam trở thành một trong những ứng cử viên sáng giá đón dòng vốn dịch chuyển này. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào nước ta tăng mạnh, tăng 18,5% (quý I/2021) so với cùng kỳ năm trước, điển hình như Mỹ tăng 205,5%; Nhật Bản tăng 147,7%; Hàn Quốc tăng 67,1%.Đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở các nước tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao tỉ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định, với giá phải chăng. Mặt khác, đầu tư ra nước ngoài giúp bành trướng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
>>>>> Top 5 cổ phiếu giá trị nhất Việt Nam năm 2022 nên đầu tư để nhận cổ tức
*** Tất cả là quan điểm cá nhân và không được xem là lời khuyên đầu tư!
Chúng tôi sẽ cập nhật thêm tin tức và khuyến nghị đầu tư chứng khoán hàng ngày theo đường link : Khuyến Nghị Đầu Tư Chứng Khoán. Và đừng quên một nút like trang Facebook Đầu Tư Là Gì để cập nhật thêm tin tức và học hỏi thêm nhiều kiến thức về thị trường nhé. Mọi thắc mắc nhà đầu tư có thể bình luận ở phía dưới chúng tôi sẽ cố gắng phản hồi sớm nhất.
Chúc cả nhà đầu tư hiệu quả!